Chuyện về dạy tăng cường tiếng việt của trẻ mẫu giáo lớp Nhỡ B

Thứ ba - 31/10/2023 20:22

Chuyện về dạy tăng cường tiếng việt của trẻ mẫu giáo lớp Nhỡ B

Chuyện về dạy tăng cường tiếng việt của trẻ mẫu giáo lớp Nhỡ B

Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của loài người, là phương tiện tư duy và công cụ giao tiếp xã hội. Ngôn ngữ bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết và là công cụ quan trọng nhất của sự trao đổi văn hoá giữa các dân tộc. Ngôn ngữ là tấm gương phản ánh văn hoá của mỗi dân tộc. Các dân tộc thiểu số của Việt Nam có ngôn ngữ riêng của dân tộc mình trong sinh hoạt cộng đồng của họ, đồng thời họ cũng sử dụng Tiếng Việt để giao tiếp với cộng đồng người Việt trên toàn quốc, đồng thời được cung cấp giáo dục, y tế, giải trí, thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng bằng chữ Quốc ngữ. Sự giao thoa văn hoá ngôn ngữ làm phong phú thêm cho nền văn hoá của người thiểu số, đồng thời cũng làm thay đổi cuộc sống, kinh tế và vị thế của cộng đồng các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt anh em. Có thể nói rằng “cộng đồng các dân tộc thiểu số ở nước ta thực sự là một cộng đồng song ngữ” - tiếng mẹ đẻ của từng dân tộc và tiếng Việt của người Kinh.

Tiếng Việt còn gọi là tiếng phổ thông với tư cách là ngôn ngữ Quốc gia, là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường và các cơ sở giáo dục từ mầm non đến đại học. Thực tế cho thấy chất lượng học tập của học sinh dân tộc thiểu số phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tiếng Việt của học sinh. Phần lớn trẻ dân tộc thiểu số khi tới trường, lớp mầm non đều chưa được sống trong môi trường tiếng Việt.

Việc quan trọng trong trường mầm non cần làm là giúp trẻ trước độ tuổi đi học phát triển tốt ngôn ngữ, phù hợp với từng lứa tuổi và sự phát triển chung của trẻ.Ở lớp tôi đa số các cháu là người dân tộc thái, ngôn ngữ còn hạn chế so với các cháu dân tộc kinh đó cũng là một trong những khó khăn của giáo viên chúng tôi trong việc giảng dạy và giáo dục các cháu. Nhưng khi được bồi dưỡng qua các lớp tập huấn về " Tăng cường tiếng việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số" và tham khảo các tài liệu do Bộ giáo dục ban hành giáo viên chúng tôi cũng tháo gỡ được nhiều vướng mắc và có nhiều kiến thức hơn trong việc lồng ghép dạy tăng cường tiếng việt cho trẻ ở lớp.

Bước vào ngưỡng cửa trường mẫu giáo trẻ bắt đầu làm quen với ngôn ngữ thứ hai và đây cũng là thời kỳ đầu tiên trong quá trình trẻ học nói tiếng Việt, tiếp thu kiến thức bằng tiếng Việt. Mọi lời nói hướng dẫn, cách truyền đạt của cô đều thật khó đối với trẻ. Nửa đầu học kỳ 1, nhiệm vụ quan trọng nhất là phát triển khả năng nghe hiểu lời nói của cô.

Với mục đích trẻ trẻ hiểu ghĩa của từ ngữ rồi trẻ thực hành tiếng Việt. Yêu cầu đối với giáo viên không cấm trẻ nói tiếng mẹ đẻ và cần tránh dạy trẻ nói mà không hiểu nghĩa. Ở đây tôi thường xuyên sử dụng đồ dùng trực quan, hành động với đồ vật, bằng ngôn ngữ hình thể để diễn đạt một cách cụ thể dễ hiểu nhất giúp trẻ một phần nắm bắt dễ dàng và hiểu một cách chính xác vấn đề.

Ví dụ: Trẻ làm quen với tên gọi các bạn: đây là bạn Mai chi, đây là bạn Mai Trang… cô dắt trẻ lên và giới thiệu cho các bạn nghe, lần lượt các bạn trong lớp. Cho trẻ làm quen với tên gọi và đồ dùng đồ chơi ở các góc trong lớp học: Đây là viên gạch, đây là quả táo…Khi cô giới thiệu cho trẻ nghe cô hỏi lại để kiểm tra đối với các trẻ. Cô giới thiệu và làm mẫu một số hành động cụ thể : đứng lên, ngồi xuống, đi ra ngoài… kết hợp sử dụng tiếng mẹ đẻ để giải thích nghĩa của từ và câu, nhất là những từ trừu tượng, khó hiểu. Tôi thường xuyên dùng những từ ngữ nhẹ nhàng để khen ngợi trẻ, nêu những điểm nổi bật làm trẻ thích thú và chăm chú nghe cô nói.

Sử dụng đồ dùng cho trẻ tiếp cận theo nhóm đối tượng giúp trẻ dễ sâu chuỗi được vấn đề hơn:

Vi dụ: Cho trẻ quan sát tranh các con vật cô hỏi “ Con gì đây” và “đây là con gì” đầu tiên trẻ chưa biết tôi hướng dẫn trả lời rồi cho trẻ bắt chước sau đó trẻ tự trả lời, và cứ như vậy trẻ sẽ tự hiểu đó là những con vật. Vì vậy khi cho trẻ tiếp súc đối tượng tôi thường đưa các đối tượng có cùng chủng loại: các loại quả, các đồ chơi...

Tôi thường xuyên trao đổi với trẻ bằng cách chọn từ ngữ sao cho ngắn gọn, dễ hiểu kết hợp hướng dẫn giúp trẻ hiểu những vấn đề, nhiệm vụ gần gũi đối với trẻ: Ví dụ: Khi trẻ đến lớp cô nhắc “ Chào cô nào” và cô hướng dẫn cho trẻ thực hiện nói “ Cháu chào cô” và các khái niệm, các từ chỉ tên người, đồ vật ví dụ: Tên bạn, quần áo, bát đĩa, tên đồ dùng đồ chơi trong lớp, một số hoạt động hàng ngày trẻ phải thực hiện ví dụ: con hát nào, con hãy đọc thơ, con thực hiện cùng cô nào…

Tôi luôn chú ý phát rõ âm để trẻ dễ tiếp thu, dạy trẻ cần phải kèm tranh minh họa, vật thật đôi khi cần có cả sự giải thích, khi sử dụng từ ngữ cô lựa chọn cầu từ ngắn gọn, dễ hiểu phù hợp với trẻ. Chú ý cung cấp từ mới cho trẻ phải nhắc đi nhắc lại giúp trẻ nghe rõ và hiểu vấn đề một cách cụ thể.

Tạo cho trẻ năng lực bắt chước kết hợp âm thanh, trẻ thường xuyên học nhắc lại những gì nghe được từ cô và các bạn, đây cũng là một trong những biện pháp trẻ dễ học dễ hiểu nhất: Ví dụ: Trong giờ học tôi đưa một bức tranh và hỏi trẻ cô có gì đây? Một số trẻ trả lời “ Tranh con vịt” cô khẳng định là đúng và cho cả lớp và cá nhân bắt chước nói giống cô và các bạn cứ như vậy trẻ học rất nhanh và hiệu quả cũng rất cao.

Nghe với những hình ảnh động: Các hình ảnh đính kèm những ngôn ngữ làm cho trẻ ‘hiểu’ được ít nhiều nội dung của vấn đề, mà không cần phải ‘dịch’ từng câu.

Ví dụ: Thường xuyên mở các bài hát, đoạn video về các con vật, các hiện tượng tự nhiên hay các sự kiện… cho trẻ xem, trẻ chăm chú phán đoán và trẻ cũng dần hiểu một số câu từ trong những đoạn video, clip đó.

Luyện nghe cho trẻ cũng rất quan trọng, luyện cho trẻ nghe được các âm vị cấu trúc âm tiết khác nhau , nghe biểu cảm về phương diện âm thanh.

Mặc dù có thể hơi khó với trẻ nhưng đọc hay kể chuyện cho trẻ nghe ngay từ những ngày đầu tới lớp của trẻ là một trong những cách tốt nhất giúp trẻ làm quen với ngôn ngữ tiếng Việt. Thông qua việc dành thời gian đọc, kể cho trẻ nghe từ đó giúp trẻ nhận biết những điều kỳ diệu mà ngôn ngữ đem lại và sự thích thú của trẻ đối với những điều kỳ diệu đó sẽ biến trẻ thành người ham học.

Yêu cầu ở nội dung này cô cần phải kiên trì, thường xuyên trò chuyện giao tiếp cùng trẻ có nhiều biện pháp giúp trẻ nghe hiểu một cách chính xác nội dung cô cần truyền đạt. Do vậy tôi luôn chú ý đến lời nói phải chính xác, rõ ràng, mạch lạc, tránh nói lắp, nói ngọng.

Lựa chọn nội dung giáo dục và hoạt động phù hợp với khả năng của trẻ.

Ví dụ: Lựa chọn những bài thơ, bài hát ngắn gọn dễ hiểu, tìm những bài thơ, ca dao, đồng dao giúp trẻ dễ đọc dễ nhớ và cũng thuận lợi trong việc khai thác nội dung.

Luôn chú ý hệ thống câu hỏi đàm thoại với trẻ để đảm bảo tình phù hợp, chính xác và có tính mở chú trọng lấy trẻ làm trung tâm. Đặc biệt khi lựa chọn đề tài này cần phải chú trọng hơn khi xây dựng nội dung giáo dục để đảm bảo tính hiệu quả phù hợp với nội dung và đối tượng vùng miền.

+ Trẻ học tiếng Việt gắn với những tình huống thực tế.

Hình ảnh, trò chơi, nhạc họa, diễn kịch… nói chung là các hoạt động nhằm giúp trẻ tham gia vào môi trường sử dụng tiếng Việt một cách tự nhiên, không gượng ép. Các hoạt động đa dạng sẽ giúp trẻ từng bước hình thành phong cách riêng trong học tập và sử dụng tiếng Việt. Phong cách riêng chính là nền tảng của chất lượng và hiệu quả học tập tiếng Việt cho trẻ em. Nắm bắt được đặc điểm này tôi đã không ngừng học sưu tầm những trò chơi hay, mới lạ trên báo chí, thông tin đại chúng để tạo các tình huống và đưa vào dạy trẻ phù hợp theo nội dung từng chủ điểm.

Ví dụ: Tổ chức các trò chơi cho trẻ như:

-Trò chơi những chiếc thuyền: Cô đổ nước vào chậu hoặc bát to. Để 3 cái hộp rỗng vào. Cần thổi chúng chuyển động từ bờ bên này sang bờ khác. Cô nói với Trẻ: “Con tưởng tượng xem, đây là biển nhé. Để cho tàu ra khơi, cần có gió đẩy thuyền đi. Con hít sâu vào rồi thổi mạnh đi!”. Điều quan trọng là theo dõi việc thở ra và khuyến khích trẻ thực hiện theo yêu cầu của cô.Để kích thích khẩu ngữ của bé, cô đặt những câu hỏi: “Thời tiết trên biển thế nào con nhỉ?”, “Con thấy mặt nước trông như thế nào?”…cô cho trẻ chơi theo nhóm nhỏ các trẻ khác quan sát và nhận xét về các con thuyền, nhận xét cách chơi của các bạn cùng với những lời tán thưởng của cô trẻ rất thích thú cổ vũ cho những con thuyền, đây cũng là một hình thức trẻ được chơi một cách thoải mái nhất nhưng trẻ lại nhớ lâu những từ mới như “con thuyền”, “mặt nước”, “thổi mạnh”, “thuyền đi nhanh, thuyền đi chậm”… bởi qua lúc chơi trẻ hò reo cổ vũ theo cô và các bạn.

- Trò chơi dàn nhạc đặc biệt: Cần 6 cái hộp và 3 kiểu vật liệu hạt rời (ngũ cốc, đường, bột, hạt cườm…). Điều quan trọng là đổ từng đôi hộp số lượng vật liệu như nhau để âm thanh trùng nhau chính xác. Nhưng âm thanh của đôi hộp này cần khác biệt với đôi khác. Một bộ đưa cho trẻ, còn bộ kia cô giữ. Cô lắc “Hộp” bất kì, còn trẻ cần tìm trong bộ của mình cái thùng có âm thanh y như thế. Cô tăng dần số lượng hộp. Cô nghĩ ra những tên gọi lí thú cho những dụng cụ đó: Tiếng ồn, quả bom, lúc lắc, lạo sạo… trẻ được chơi cả lớp và yêu cô yêu cầu cá nhân lên chọn “Hộp” cả lớp cùng nhắc giúp bạn với sự gợi ý của cô. Cô nói các con chú ý xem chiếc “Hộp” này có tiếng kêu thế nào ? ai giỏi lên tìm hộp có tiếng kêu giống hộp của cô nào. Trẻ sẽ phải lắc các hộp để tìm cùng với sự chỉ dẫn của các bạn “ Hộp này, hộp kia, đúng rồi, sai rồi, tìm đi, lắc hộp đi…” đó là những từ được nhắc nhiều trong trò chơi, trẻ cổ vũ, chỉ dẫn cho bạn, đây cũng là cách trẻ được học những từ mới mà không cần cô chỉ dẫn song vẫn đạt yêu cầu… trẻ em rất thích điều đó.

- Trò chơi cái bao bí ẩn: Cần một cái bao hoặc túi không trong suốt để không nhìn thấy được những vật dụng bên trong túi. Cho vào đó những đồ vật hình oval và hình tròn (trứng, quả bóng nhỏ, bóng lục lạc, cái hộp…). Trước khi cô cho những vật trên vào bao, hãy cho trẻ sờ chúng trước và gọi tên những vật đó. Sau đó, đề nghị trẻ tìm vật cần thiết qua cảm ứng: “Bàn tay con có đôi mắt thần kì đó. Con hãy dùng tay lấy cho cô quả bóng xem nào!” (hoặc vật khác). Cô hỏi trẻ về đồ vật trẻ lấy ra khỏi bao: “Đây là cái gì?”, “Có thể chơi bóng như thế nào nhỉ?”.

- Các tình huống gắn liền với hoạt động trong ngày cũng là những cơ hội để giáo viên giúp trẻ tăng cường tiếng Việt. Tôi giúp trẻ làm giàu thêm vốn từ vựng của mình và giúp trẻ phát triển khả năng nghe, phản xạ bằng cách yêu cầu trẻ nêu tên tất cả những đồ vật mà trẻ biết bắt đầu bằng những tên bạn trong lớp, tên cô, tên các đồ dùng đồ chơi.

Ví dụ: Cô hướng trẻ với những sự vật hiện tượng sung quanh để trò chuyện và mở rộng ngôn ngữ cho trẻ, gợi ý tạo sự tò mò của trẻ vào những thay đổi khác thường chẳng hạn: Cây đào sân trường ra hoa, trời mưa rất to, bạn Lan có váy mới…

Ví dụ: Các giờ hoạt động khám phá môi trường, ngoài việc cung cấp kiến thức cho trẻ cô cũng đồng thời tăng cường tiếng Việt cho trẻ một cách rất hiệu quả. Thông qua những hình ảnh, mô hình, vật thật trẻ được sờ, được nếm, được ngửi, được nghe cùng với những từ ngữ có chọn lọc cô cung cấp kiến thức và từ mới cho trẻ : Với hoạt động làm quen các loại quả trẻ biết tên quả, quả có màu gì, ăn có vị gì, con thích quả gì. Cô nhắc lại những đặc điểm rồi cho trẻ nhắc lại cứ như vậy trẻ học từ mới một cách tự nhiên theo nhiều hướng khác nhau. Với chương trình giáo dục mầm non thực hiện chủ đề nhánh theo tuần vậy nên trong tuần trẻ được tiếp súc làm quen nhiều loại quả với nhiều hình thức khác nhau như: xem tranh, xem hình ảnh trên video, quả thật và qua sự miêu tả của cô…. ở các hoạt động vui chơi và hoạt động khác nữa. Trẻ dần khắc sâu ngôn ngữ tiếng Việt cùng với tư duy của mình.

Ví dụ: Khi trò chuyện về con mèo, cô giáo có thể cho trẻ xem tranh hoặc quan sát con mèo thật, cô giáo yêu cầu trẻ quan sát thật kỹ về con mèo để biết con mèo có đặc điểm gì, hoạt động như thế nào…, sau đó cô đặt câu hỏi cho trẻ trả lời. Cần lưu ý đến khả năng ngôn ngữ của trẻ trong quá trình trò chuyện nhằm phát triển, tăng cường ngôn ngữ dưới hình thức.

* Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy và phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

Những hình ảnh đẹp những hiệu ứng của hình ảnh có tình huống biến hóa, những vi deo sôi động là cách lôi cuốn trẻ , trẻ có thể ngồi hàng giờ bên video, tôi thường suy tầm những nội dung phù hợp với chủ đề cho trẻ khám phá:

Ví dụ: Những bài học luyện phát âm và hay từ mới cho trẻ, với chủ đề giáo thông có những loại phương tiện giao thông hình ảnh kèm lời đọc loại phương tiện đó , trẻ được chi giác và phát âm theo, hay chủ đề động vật cũng có rất nhiều bài dạy trẻ phát âm tên và vận động động của các con vật.

Nhưng những lời động viên, khen ngợi đó sẽ có tác dụng lớn hơn khi chúng được nói ra dựa trên những việc trẻ đã làm tốt hoặc đã nỗ lực để thực hiện. Một khi trẻ đã đạt được một mục tiêu nào đó thì cô giáo khen ngợi chúng cả về thành quả lẫn quá trình nỗ lực để đạt được thành quả đó.

Ví dụ: Sau khi trẻ nặn được một quả cam cô nói với trẻ rằng “ Con nặn đẹp rồi con hãy vuốt cho quả mịn hơn nữa đi” hoặc khi trẻ đọc thơ cô khen trẻ và khuyết khích các bạn động viên trẻ. Cô chú ý động viên khen ngợi trẻ kịp thời và hướng cho trẻ đến với sự chính xác của vần đề.

Ví dụ: Khi cô hỏi trẻ màu sắc của bông hoa hồng màu đỏ “ Bông hoa có màu gì?” nếu trẻ trả lời màu xanh tôi thường cho trẻ khác nhận xét và cô khẳng định lại và khuyến khích trẻ trả lời lại cho thật chính xác và cũng không quên động viên trẻ tạo tâm lý thoải mãi ngay cả khi trẻ biết mình trả lời sai.

Tuy nhiên, cần phải chọn thời gian thích hợp để trẻ học làm những việc này. Thời gian vui chơi, hoạt động khám phá là thích hợp nhất vì trẻ có thể làm từ từ và ít căng thẳng hơn.

Ví dụ: Các hoạt động: Ngoài trời, hoạt động góc, các hoạt động khám phá hay các tiết biểu diễn văn nghệ…

Sự tự tin ở trẻ sẽ tăng lên mỗi khi chúng học được một kĩ năng mới hay vượt qua một mốc quan trọng nào đó. Vì vậy cô giáo thường xuyên có thể giúp trẻ gây dựng sự tự tin bằng cách tạo cho chúng thật nhiều cơ hội để rèn luyện và tập thành thục các kĩ năng mới. Tôi để cho trẻ tự do thể hiện và luôn ở bên để động viên tinh thần của chúng, nhắc chúng tiếp tục cố gắng. Luôn tỏ ra thích thú và vui mừng mỗi khi trẻ thể hiện là chúng đã tập thành thạo một kĩ năng mới rồi . Khen ngợi trẻ mỗi khi trẻ đạt được một mục tiêu nào đó hoặc nỗ lực làm việc gì đó.

Ví dụ: Trong các hoạt động vui chơi hay ôn luyện tôi thường mời cá nhân trẻ lên giới thiệu về bản thân và chủ đề trẻ đang học, mời trẻ lên đọc thơ hay ca hát, mở các bản nhạc vui nhộn cho trẻ cùng vui nhảy múa theo như các Video erobic mầm non…

Trẻ thường xuyên thực hành sẽ trở nên tiến bộ rất nhiều vì vậy tôi thường xuyên chao đổi với trẻ nhằm giúp trẻ được trò chuyện với cô ở mọi lúc mọi nơi.

Vi dụ: Giờ đón trẻ cô trò chuyện với trẻ “ Ai đưa con đi học”, “ Sáng nay con ăn gì”, “ Ai buộc tóc cho con đẹp thế”…Giờ trả trẻ “ Khi về nhà gặp bố mẹ con sẽ làm gì?”, “ Con chào bà như thế nào, con chào ông như thế nào?....”

Cô luôn phải là tấm gương cho trẻ soi vào, ở đây mỗi động tác, lời nói cử chỉ điệu bộ của cô cũng là những bài học cho trẻ, muốn trẻ tự tin cô giáo luôn phải có sự sáng tạo tìm tòi đưa ra các cơ hội giáo dục cho trẻ khác nhau.

Ví dụ: Tổ chức các trò chơi tập thể hoặc cá nhân, giúp trẻ tích cực tham gia theo hình thức tập thể.

- Giáo viên nên khám phá những mặt mạnh, những điểm tích cực của trẻ để khuyến khích, nâng đỡ. Tăng cường tiếng Việt ở mọi lúc mọi nơi, phù hợp với khả năng của trẻ. Giáo viên luôn cần giúp trẻ hình thành mối quan hệ gắn bó giữa trẻ này với trẻ khác, giữa trẻ với cô giáo như vậy trong quá trình học, sinh hoạt động ở trường cùng cô và các bạn trẻ biết chia sẻ bày tỏ và phối kết hợp cùng hoạt động vui chơi, cô tạo các hoạt động cho cô và trẻ cùng hoạt động: cùng chơi đùa, cùng ăn uống, cùng trò chuyện với sự thân thiện và tôn trọng trong một môi trường an toàn và vui vẻ.

Ví dụ: Cô luôn coi những đứa trẻ là bạn trong lúc chơi, đặc biệt trong giờ chơi hoạt động góc, trẻ phải có tâm lý được thoải mái khi chơi và phối hợp cùng cô.

- Giúp trẻ biết các bầy tỏ nhu cầu:

Cô giáo luôn gần gũi với trẻ và cần kiên nhẫn chờ đợi, khích lệ trẻ bầy tỏ nhu cầu thay vì phỏng đoán và đáp ứng ngay. Điều này sẽ giúp trẻ từ từ trở nên một chủ thể sáng tạo, biết tự quyết định, chọn lựa thay vì chỉ có những phản ứng máy móc, tự động, chỉ biết nhắc lại.

Ví dụ: Cô luôn chú ý đến những thái độ khác biệt của trẻ và gợi hỏi: con cần gì nào, con thích gì, con đang tìm gì vậy, con cần cô giúp gì không? nhiều trẻ chưa thể hiện mong muốn nhu cầu của mình tôi thường hỏi những trẻ khá hơn “ Bạn muốn gì vậy con” trẻ tự hỏi bạn và đưa ra yêu cầu giúp bạn từ đó tôi cho trẻ nhắc lại mong muốn của mình, đây là một hình thức rất cần thiết vì trẻ biết phải đưa ra những mong muốn bằng tiếng Việt thì mới có thể chủ động trong những lần sau

- Giúp trẻ tham gia các hoạt động Tâm vận Động:

Trong một ngày tôi luôn quan tâm đến nội dung hoạt động ngoài trời đây là khoảng thời gian trẻ sẽ vừa chơi vừa học, bằng những hoạt động vui thú như leo trèo, chạy nhảy vui chơi cùng cô và các bạn… trẻ được reo vui hò hét một cách thoải mái. Tôi luôn bày các trò chơi cho trẻ cùng tham gia bằng những hình thức đơn giản nhưng trẻ lại được chơi và trải nghiệm những từ ngữ tiếng Việt mới.

Ví dụ: Với trò các trò chơi dấu dép cô cho trẻ đi tìm và chỉ hoặc nói địa điểm cô dấu “ dép cô dấu ở đâu nhỉ?” “ Cô dấu dép ở gốc cây đào” … đây là cách hướng dẫn trẻ chơi mà học từ mới trẻ cũng hiểu luôn ý nghĩa của những từ mới học và chỉ những lần sau trẻ tự tìm và nói địa điểm cô dấu một cách rõ dàng và tương đối đầy đủ.

- Giúp trẻ biết trả lời các câu hỏi :

Giúp trẻ phát triển khả năng hình dung và tưởng tượng thông qua các câu hỏi gợi ý : Cái gì, ở đâu, thế nào, để làm gì, khi nào …

Nếu trẻ trả lời đúng phải khen ngợi, động viên – Nếu trẻ trả lời sai thì nhẹ nhàng nhắc trẻ nghe thêm ý kiến của các bạn và cô nhắc lại câu hỏi và khuyến khích bạn khác trả lời và cho trẻ yếu nhắc lại .

Tôi chú trọng đến sự phát triển của cá nhân, thường chú ý đến những trẻ yếu về ngôn ngữ rụt rè trong lớp đây cũng là những đối tượng được ưu tiên.

- Xây dựng mối quan hệ tốt và giúp trẻ biết chơi đùa với bạn bè

Chơi đùa là một hoạt động rất quan trọng, qua các trò chơi trẻ có thể thiết lập mối quan hệ tốt với cô giáo và bạn bè. Ngay cả trong các hoạt động hàng ngày cũng đưa vào những câu nói và ý tưởng như một trò chơi

- Gọi tên sự vật nhiều lần.

Bất kể lúc nào khi cho con ăn, khi rửa chân tay, tôi gọi tên những đồ vật xung quanh và chỉ cho trẻ thấy. “Đây là tivi”, “đây là chân cô”, “đây là chân con”… Trò chuyện với trẻ bằng những câu ngắn và đơn giản: “Các con đói rồi hả”, “cùng đi rửa tay cô lấy cơm cho ăn nhé”… Điều này giúp trẻ nhận thức được đồ vật, xây dựng vốn từ và nhận biết mối liên hệ giữa hành động và lời nói.

- Dạy trẻ cách nhìn, nghe và làm theo

Nhìn thẳng vào mắt trẻ để hướng dẫn trẻ nhìn vào vật rồi nhìn miệng cô để xem cách phát âm. Lặp đi lặp lại nhiều lần, khuyến khích nói những điều trẻ nhìn thấy. Điều đó có nghĩa là phải làm đi làm lại. Tạo thật nhiều cơ hội để trẻ phải nói đi nói lại cái đó nhiều lần. Đó có thể là những bài hát, những quyển sách hay những lời chỉ dẫn. Tôi làm theo một quy tắc và mọi thứ đã trở nên quen thuộc với trẻ và khi trẻ đã quen, chúng sẽ hiểu và cố gắng làm giống như thế.

Phối kết hợp với phụ huynh học sinh đây là nội dung tôi luôn chú trọng bởi dù ít dù nhiều phụ huynh nào cũng muốn con em mình học hành tiến bộ. Đối với những trẻ nhỏ ở nhà chưa biết hát biết múa bằng tiếng Việt nhưng sau một thời gian đến lớp trẻ biết hát, đọc thơ và kể lại chuyện cho bố mẹ nghe về những bài học ở lớp bằng tiếng phổ thông. Từ đó giáo viên luôn nhận được sự phối kết hợp nhiệt tình của phụ huynh. Tôi thường xuyên chao đổi với phụ huynh về tình hình học tập của trẻ, đặc biệt chao đổi về khả năng nói tiếng Việt của trẻ, và yêu cầu phụ huynh dạy trẻ thêm tiếng Việt ở nhà:

Vì dụ: Tôi hướng dẫn cho phụ huynh khi ăn cơm anh chị hãy chỉ cho các cháu biết những món ăn trong gia đình, khi tắm cho cháu chỉ cho các cháu các bộ phận trên cơ thể, khi trẻ đi học về nhắc con chào ông bà….

Tuy trẻ đến lớp với cô hàng ngày nhưng cô không thể tập chung và mỗi cá nhân và hiểu trẻ bằng bố mẹ. Vì vậy phối hợp với gia đình trong việc cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ lại càng tốt hơn. Qua các cuộc họp phụ huynh giáo viên thông báo kết quả học của mỗi cháu cho phụ huynh nắm và đặc biệt không quên cho phụ huynh biết khả năng tiếp thu kiến thức bài học bằng ngôn ngữ Tiếng việt của mỗi cháu ra sao và từ đó thống nhất với phụ huynh xây dựng nội quy của trường mầm non là “Tất cả mọi người khi đến trường, lớp đều phải nói bằng Tiếng việt” và nhà trường rất mong phụ huynh hợp tác trong việc cung cấp Tiếng việt cho trẻ thường xuyên ở nhà.

Ví dụ: Khi phụ đón trẻ cô chao đổi về nội dung bài học và gợi ý cho bố mẹ về kiểm tra trẻ: Hôm nay cháu học làm quen với các con vật, anh chị hãy về nhà hỏi cháu bằng tiếng Mông và cho cháu dịch tiếng Việt xem cháu biết nhiều không nhé, yêu cầu phụ huynh dạy thêm cho trẻ...Từ những lời nói ấy đã thúc đẩy phụ huynh quan tâm đến con em mình hơn, chăm lo cung cấp vốn tiếng việt ở nhà cho trẻ nhiều hơn. Cho nên trẻ trong lớp tôi có nhiều cháu hiện giờ nói tiếng Việt rất thành thạo loát ngôn ngữ Tiếng việt, biết dùng từ, câu để diễn đạt điều trẻ muốn nói, không còn trẻ nói câu không rõ nghĩa, câu thiếu chủ ngữ, vị ngữ, trẻ mạnh dạn giao lưu cùng cô giáo, cùng bạn bè và mọi người xung quanh.

 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây